Top 10 Loài động vật có bộ lông đẹp nhất thế giới

Trong thế giới động vật, bộ lông có rất nhiều tác dụng khác nhau như giữ ấm, làm đẹp, đe dọa kẻ thù,…trong số đó nổi lên một số loài có vẻ đẹp cực kỳ quyến rũ nhờ những bộ “cánh” mà thiên nhiên ban tặng cho. Hãy cùng Top10dieuhay đi tìm hiểu về những loài vật này nhé.

1. Ngựa Gypsy

Đây là giống ngựa nhỏ có lông ở chân, chúng nổi tiếng là loài vật nhẹ nhàng, tự nhiên, và dễ thuần phục. Chúng có lông và bờm mao dài từ dưới đầu gối của chân trước và chân sau chạy xuống chân chảy trên mặt trước và sau của móng guốc, lông của chúng có nhiều màu sắc khác nhau rất đa dạng trong đó chủ yếu là hai màu đen và trắng. Ngựa Gypsy có dáng đặc biệt dễ quản lý, háo hức để làm hài lòng, nhanh nhẹn và dũng cảm. Con ngựa Gypsy thông thường, nhưng không phải luôn luôn nhiều màu sắc. Nó cũng có thể là sắc trắng và hồng hoặc bất kỳ màu sắc rắn, một con ngựa rắn màu với bắn tung tóe trắng trên bụng được gọi là “Blagdon”. Không có yêu cầu màu lông trong tiêu chuẩn giống của Irish Cob Society, Gypsy Vanner Horse Society, Gypsy Horse Registry của Mỹ, hoặc Australasian Gypsy Horse. Kể từ khi con ngựa bắt nguồn từ nước Anh.

Lông và bờm mao dài bắt đầu từ dưới đầu gối của chân trước và chân sau của hai chân sau và chạy xuống chân chảy trên mặt trước và sau của móng guốc, là một thuộc tính có giá trị cao của Gypsy Horse, tóc thẳng mượt và lông là mong muốn, dù hơi thô và thậm chí cả mái tóc lượn sóng và lông được phép, lông không phải là một nhu cầu đăng ký với Cob Society Ireland, trong đó, tuy nhiên, xem xét lông một “tính năng đặc trưng và trang trí của giống Cob Irish”.

Cổ chân và móng góc độ của chân sau có nhiều dọc hơn chân trước, thường là trên 50 độ móng guốc tròn và có gót rộng. Hai chân sau của ngựa Gypsy gập góc thích hợp cho một con ngựa kéo. Con ngựa Gypsy có dáng đặc biệt. Gypsy phải là một “mạnh mẽ, thông minh mà làm việc tự nguyện và hòa hợp với việc điều khiển của nó. Chúng cũng được mô tả là lễ phép và quản lý được, háo hức để làm hài lòng, tự tin, dũng cảm, cảnh giác và trung thành.

Ngựa Gypsy
Ngựa Gypsy

2. Bò cao nguyên Scotland

Bò cao nguyên có sừng dài và áo khoác dài lượn sóng màu đen, lốm đốm, màu đỏ, màu vàng và thường chủ yếu nuôi để lấy thịt. Có nguồn gốc từ Cao Nguyên và Tây Isles của Scotland và đã được đề cập đầu tiên trong thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Có hai loại riêng biệt của bò này đã được mô tả đầu tiên trong cuốn sách năm 1885. Một là giống bò Kyloe có nguồn gốc từ các đảo có điều kiện khắc nghiệt hơn. Những gia súc có xu hướng để có bộ lông màu đen thường xuyên hơn và nhỏ hơn với mái tóc dài hơn, do điều kiện gồ ghề hơn về mặt địa hình. Một loại khác là sống trên đất liền. Những xu hướng lớn hơn, vì đồng cỏ của chúng giàu chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, ngày nay các loại đã được lai như vậy là không có sự khác biệt rõ rệt và cả hai đều được coi là bò cao nguyên.

Chúng là một giống bò khỏe do môi trường bản địa của nó, Một con bò mộng có thể nặng tới 800 kg, bò cái nặng lên đến 500 kg. Sữa của chúng thường có hàm lượng mỡ bơ rất cao. Thịt được coi là một trong những chất lượng cao nhất và đang được xu hướng chấp nhận vì nó là rất ít cholesterol. Bò đực trưởng thành có thể nặng tới 800 kg (1.800 pound) và bò cái có thể nặng tới 500 kg (1.100 pound). Bò còn có tuổi thọ lâu hơn dự kiến so với hầu hết các giống khác của gia súc, lên đến 20 năm. Nó là giống chuẩn bò đực phải có sừng. Những con bò có truyền thống được sử dụng như bò nhà là họ có một tính khí ngoan ngoãn và sữa có hàm lượng mỡ bơ cao.

Tóc của chúng được xem là dài nhất của bất kỳ giống gia súc và giúp bảo vệ chúng trong mùa đông lạnh. Kỹ năng của chúng trong việc tìm kiếm thức ăn cho phép chúng tồn tại trong khu vực núi dốc đứng, nơi cả hai đều ăn cỏ và ăn thực vật có nhiều gia súc khác tránh. Chúng có thể khai thác nguồn thức ăn thông qua tuyết với sừng của chúng để tìm cây bị chôn vùi. Bò cao nguyên được biết là có một lịch sử mà ngày trở lại ít nhất là vào thế kỷ thứ 6, trong khi các bằng chứng bằng văn bản đầu tiên ngày trở lại vào thế kỷ 12.

Bò cao nguyên Scotland
Bò cao nguyên Scotland

3. Chó Komondor

Komondor là một giống chó truyền thống lâu đời và được xem là một báu vật quốc gia của Hungary. Tuy bề ngoài giống như chó lông xù hiền lành, nhưng thực sự chúng là giống chó dữ, dùng để cảnh giới và bảo vệ tài sản hiệu quả. Điểm đặc biệt của những con chó Komondor là bộ lông bùi nhùi khủng khiếp chúng phải khoác trên người, vì vậy chúng còn có tên là “chó giẻ lau”.

Theo sử sách Hungary còn ghi lại. Komondor được người Cumans đưa vào Châu Âu vào khoảng năm 1544. Tên Komodor xuất phát từ “Koman – dor”, có nghĩa là “Cuman dog” – Chó của người Cuman, được lai giữa giống chó chăn cừu của người Tây Tạng và giống chó địa phương của người Cuman, quê hương là vùng đất tại lưu vực sông Hoàng Hà. Vào cuối những năm 900, người Mông Cổ bắt đầu mở rộng lãnh thổ của họ đến nơi sinh sống của người Cuman, buộc họ phải bỏ chạy về phía Tây đến gần biên giới Hungary ngày nay vào những năm 1100 và được cấp quyền cư ngụ tại đây vào năm 1239, dưới triều đại của Koten Khan. Komondor có chiều cao khoảng từ 65cm đến 90 cm, đầu to, mõm ngắn, mũi đen, nặng trung bình 50, 60kg. Đặc trưng của giống chó này là bộ lông trắng tinh, dài khoảng 20 đến 27 cm và rất dày. Những con chó trưởng thành sẽ có bộ lông được kết thành từng tua tự nhiên mềm và mịn như một chiếc áo khoác và có khi nặng đến 30kg. Người ta cho rằng, bộ lông này phát triển theo luật sinh tồn trải qua nhiều năm, có tác dụng như một chiếc áo giáp giúp chúng bảo vệ thân thể trước những cú táp tấn công của bầy chó sói. Thực tế, hàm răng sắc nhọn của loài sói chưa bao giờ có thể xuyên qua được lớp lông.

Tính khí của giống chó Komondor cũng giống như các loài chó bảo vệ khác, đó là điềm tĩnh và ổn định, trong trường hợp bị đe dọa, nó không hề nao núng và quyết liệt bảo vệ mục tiêu được giao. Đó là một giống chó lai hoàn hảo trong tính cách suy nghĩ và hành động quyết đoán. Cũng giống như giống chó Phú Quốc của việt Nam, Komondor rất thân thiện với người nhà và trẻ em nhưng rất cảnh giác với người lạ, chúng chỉ chấp nhận người lạ sau khi chắc chắn rằng họ không làm tổn hại đến gia đình chủ nhân hoặc xâm phạm mục tiêu bảo vệ của nó. Mang bản năng của một giống chó bảo vệ, chúng thường nghĩ ngơi vào ban ngày, và di chuyển tuần tra liên tục vào ban đêm, sẵn sàng hạ mục tiêu xâm nhập, đây không phải là giống chó để những kẻ trộm và kẻ trêu chọc có thể đùa được.

Chó Komondor
Chó Komondor

4. Mèo rừng Na Uy

Là một trong những giống mèo lớn nhất thế giới, mèo rừng Na Uy gây ấn tượng mạnh với ngoại hình độc đáo ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với bộ lông ấm áp và tính cách thân thiện, chúng là những thú cưng hoàn hảo cho mọi gia đình. Mèo rừng Na Uy là giống mèo chính thức của đất nước Na Uy. Chúng đã có mặt tại đây từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm về trước. Một số người cho rằng các thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ đã đem những chú mèo yêu thích của họ lên phía Bắc khi tham gia giao dịch buôn bán. Trong khi đó, một số người khác lại tin rằng, giống mèo này là “chiến lợi phẩm” mà người Na Uy mang về trong các cuộc Thập tự chinh.

Bước ra khỏi thế giới thần thoại, giống mèo này ở thế giới thực cũng quý hiếm và đặc biệt không kém. Sau khi được trưng bày tại một triển lãm mèo vào năm 1938, chúng đã nhanh chóng thu hút được rất nhiều sự chú ý. Câu lạc bộ mèo rừng Na Uy đã được thành lập để bảo tồn giống mèo này. Thật không may, Thế chiến thứ II đã suýt làm tuyệt chủng mèo rừng Na Uy trong chiến tranh. Tuy nhiên, hoạt động của câu lạc bộ đã một lần nữa cứu sống và khôi phục chúng. Vào năm 1977, mèo rừng Na Uy đã được đăng ký giống với Fédération Internationale Féline Châu Âu (FIFe).

Mèo rừng Na Uy là giống mèo hiền lành và thân thiện. Chúng thích ở chung với các thành viên trong gia đình, nhưng không đòi hỏi sự quan tâm và vuốt ve liên tục. Chúng cũng là những chú mèo thông minh, độc lập, học hỏi nhanh và có bản tính cảnh giác. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những chú mèo này lại có khả năng leo trèo rất giỏi. Bạn sẽ thường thấy chúng thoải mái ở những kệ tủ cao nhất trong ngôi nhà. Đặc biệt, do có nguồn gốc hoang dã, nên những chú mèo này rất thích lại gần những bể cá để kiếm ăn. Do đó, bạn cần lưu ý bảo vệ những chú cá cảnh của mình khỏi những bé mèo to lớn này nhé.

Mèo rừng Na Uy
Mèo rừng Na Uy

5. Cừu Racka

Đây là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ vùng Hungary, chúng là một giống cừu được biết đến với cái sừng xoắn ốc khác thường của nó. Những phụ độc đáo không giống bất cứ sừng cừu nhà nào khác. Cừu Racka đã tồn tại ít nhất là từ năm 1800, khi đăng ký lần đầu tiên được thiết lập, là giống duy nhất với cả hai giới có sừng hình xoắn ốc dài. Đó là một giống vật nuôi nhiệt huyết, đa mục đích, giống này dùng cho vắt sữa, len và thịt cừu, len của chúng là dài và thô, và xuất hiện trong hai loại thường thấy.

Có hai mô hình màu lớn với cừu Racka. Các màu phổ biến nhất là len màu nâu bao gồm đầu và chân với chất xơ khác nhau về màu sắc từ nâu đậm đến nâu nhạt và trắng. Các cá thể cũng có thể màu đen. Những lông cừu màu đen, màu mất dần một màu đen đỏ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và khi chúng lớn lên, các điểm của sợi chuyển sang màu xám. Đường kính sợi khác nhau trong giống này và thường được tìm thấy là 12-40 micromet với sản lượng 38% đến 65% chiều dài Staple là khoảng 30 cm (12 in). Trọng lượng lông cừu phải có ít nhất 3 kg (6.6 lb) cho con cừu đực, có sự mềm mại và uốn của len.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.

Cừu Racka
Cừu Racka

6. Gà lông xù Silkie

Gà Silkie hay còn được gọi là gà lông lụa, hiện là một trong những giống gà kiểng được yêu thích nhất hiện nay. Nhờ sở hữu bộ lông xù mịn vô cùng độc đáo, những chú Silkie này luôn khơi gợi được sự hứng thú của những tay chơi gà đẳng cấp, gà lông lụa có nguồn gốc từ “đất nước tỷ dân’’ Trung Quốc. Chúng có thể xuất hiện vào thời nhà Hán năm 206 trước Công nguyên và được đưa đến phương Tây vào khoảng 200 năm trước. Tên tiếng Trung của Silkie là “wu-gu-ji’’, có nghĩa là xương đen, cũng là đặc điểm của giống gà này. Mặc dù có rất nhiều bằng chứng và tài liệu cho thấy mối liên hệ giữa gà lông lụa và Trung Quốc. Nhưng vẫn chưa có sự xác thực chắc chắn nào cho câu hỏi gà lông lụa có phải có nguồn gốc từ đất nước tỷ dân hay không.

Vào khoảng năm 1290 – 1300, gà lông lụa được đề cập lần đầu tiên bởi Marco Polo. Ông đã giới thiệu giống gà này trên tạp chí với tên là một con gà lông xù trong hành trình khắp châu Âu và Viễn Đông của mình. Sau đó không lâu, giống gà này nhanh chóng phổ biến khắp phương Tây và trở thành giống gà kiểng nổi tiếng như hiện nay.Điều đặc biệt tạo nên sức hút cho giống gà Silkie chính là bộ lông xù mềm như lụa, phủ toàn thân kể cả đầu. Gà lông lụa có dái tai màu xanh ngọc hình bầu dục và yếm thịt màu tối. Mỏ ngắn và có màu xám. Mắt có màu đen. Gà lông lụa có lưng ngắn. Chân ngắn, to và có màu xám. Chúng có 5 ngón chân thay vì 4 như các giống gà khác.

Gà Silkie có da và xương màu đen. Chính điều khác biệt này làm cho chúng trở thành món ăn ngon ở các vùng Viễn Đông. Thịt gà lông lụa cũng được sử dụng trong y học Trung Quốc. Vì nó chứa gấp đôi lượng Carnitine (một chất chống lão hóa) so với các loại thịt gà khác. Ngoài việc có ngoại hình xinh xắn, thì bản tính ngoan ngoãn cũng là lý do khiến gà lông lụa được nhiều người yêu thích. Những chú gà Silkie thường rất điềm tĩnh và thân thiện, kể cả gà trống. Nhiều người nuôi gà lông lụa còn nói rằng, giống gà này rất quấn người. Chúng thích nằm trong lòng bạn và được vuốt ve. Nhờ bản tính thiện lành nên gà lông lụa được nhiều người chọn nuôi để làm cảnh. Nhưng cũng vì chúng quá hiền nên bạn cần để mắt đến chúng thường xuyên hơn. Tránh trường hợp gà bị các loài vật khác tấn công.

Gà lông xù Silkie
Gà lông xù Silkie

7. Cừu mũi đen Valais

Cừu mũi đen có nguồn gốc từ Thụy Sĩ là loài cừu hiếm, được xếp vào nhóm di sản, với bộ lông có hai màu đen trắng xen kẽ, trong đó phần lông đen che kín toàn bộ khuôn mặt. Với vẻ ngoài vô cùng đáng yêu và thu hút của mình, cừu mũi đen Valais lập tức gây được sự chú ý và trở thành ngôi sao động vật trong khu vực, trở thành giống cừu được những người nông dân yêu thích. Nổi tiếng là loài cừu đáng yêu nhất thế giới, cừu mũi đen Valais là giống cừu quý hiếm của Thụy Sĩ, trước đây chúng được xem là “di sản” cũng bởi con người chỉ có thể bắt gặp chúng ở Valais và vùng cao nguyên ở Thụy Sĩ.

Là loài cừu hiếm, được xếp vào nhóm di sản, với bộ lông có hai màu đen trắng xen kẽ, trong đó phần lông đen che kín toàn bộ khuôn mặt. Điểm khác biệt của loài cừu này đó là phần lông có hai màu đen trắng xen kẽ, nổi bật là phần lông đen là mặt, tai, chân. Đây cũng là đặc điểm để gọi tên loài cừu này và khiến nhiều người nhầm tưởng vẻ bề ngoài của chúng như những con thú bông. Lông cừu là loại sợi lông động vật được sử dụng rộng rãi để sản xuất len. Phần lông trắng dài, mềm và xoắn lọn như những sợi dây thừng của cừu mũi đen là nguồn cung cấp khoảng 4 kg len mỗi năm.

Đây là loài cừu núi có thể sống trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở các vùng núi cao, sườn đồi, dốc núi. Loài cừu này thường được chăn thả dọc theo các sườn núi cao dọc theo dãy Pennine, nằm giữa biên giới hai nước Thụy Sĩ và Italy. Cũng giống như những con cừu khác, cừu mũi đen cũng được nuôi để lấy lông và lấy thịt. Mỗi con cừu đực nặng trung bình từ 80–130 kg, cừu cái nặng từ 70–90 kg. Cả cừu đực và cừu cái đều có sừng. Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi.

Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Cừu mũi đen Valais
Cừu mũi đen Valais

8. Gà Ba Lan

Gà Ba Lan là giống gà có nguồn gốc từ Hà Lan và chủ yếu phân bố ở một số quốc gia châu Âu. Vì có lông đầu rất đẹp nên giống gà này thường được nuôi làm cảnh. Gà Ba Lan nặng từ 1,8-2kg. Giống gà này có nguồn gốc từ miền Trung Hà Lan. Điểm đáng chú ý của gà Ba Lan là có chùm lông lớn trên đầu. Tuy nhiên, chính chùm lông này lại hạn chế tầm nhìn của chúng. Nếu nghĩ rằng các nhà khoa học biết hết xuất xứ của các loại gà thì bạn đã nhầm, vì với họ, gà Ba Lan vẫn là một giống gà chưa tỏ ngọn nguồn.

Theo đa số các nhà sinh vật học nói chung và điểu học nói riêng, gà Ba Lan có thể xuất xừ từ Đông Âu xưa, ít nhất là vài nghìn năm. Nhưng tại sao loài gà này có màu lông và dung nhan kỳ lạ thì không ai rõ. Rất có thể do tự nhiên mà cũng có thể do những cuộc lai tạo cố ý từ con người. Điều này cũng y như cái đuôi dài thậm thượt của gà Nhật Bản từng làm đau đầu giới điểu học. Gà Ba Lan cũng có nơi chỉ gọi là polish, là một loại gà cảnh chứ không phải gà thịt hay gà đẻ trứng, dù theo nhiều tư liệu khoa học thì trước kia, người ta cũng xem nó là gà công nghiệp thật sự. Tại một số khu vực nông thôn của Ba Lan, Hungary hay Cộng hoà Séc, người ta chỉ xem gà Ba Lan là gà chọi trong những dịp lễ đầu xuân hay nuôi làm cảnh. Năm 1999, khi kỹ thuật lai tạo gia cầm tiến một bước xa, giống gà Ba Lan lông xanh ra đời, đẩy số câu lạc bộ gà này lên rất cao. Tại Mỹ có hơn 200 câu lạc bộ chuyên nuôi gà “đầu xù” và thường xuyên tham dự những cuộc thi gà đẹp hằng năm tại Texas. Người Mỹ từng sử dụng kỹ thuật ghép gene để tạo những con gà Ba Lan ngũ sắc hay có mào rất dài, hoặc có bộ lông vàng óng. Tuy nhiên, nét đẹp lạ lùng của giống gà này lại nằm ở chùm lông trên đầu chứ không phải màu lông.

Gà Ba Lan thường khá nhút nhát và dễ dàng sợ hãi. Nó được nuôi làm cảnh, lấy trứng hoặc lấy thịt. Màu lông của giống gà này thường khá đa dạng từ đen, trắng, xám, đỏ tía…Một ngày, gà Ba Lan mái có thể để từ 1-2 trứng. Ở lứa sinh sản đầu tiên, trứng của chúng tương đối nhỏ. Sang lứa thứ 2 trứng bắt đầu lớn hơn.

Gà Ba Lan
Gà Ba Lan

9. Công Ấn Độ

Công Ấn Độ có bộ lông rực rỡ mọc ra từ lưng của mình, phần lông này có chiều dài khoảng 1.5 mét – thậm chí còn dài hơn cả thân chim. Khi muốn khoe vẻ đẹp của mình, đầu tiên chúng nâng phần lông đuôi ngắn cũn phía trong trước, sau đó mới đến phần lông dài hơn và xòe ra thành hình cánh quạt. Lông đuôi của công bắt đầu mọc ra từ năm 2 tuổi nhưng phải đến 2 năm sau mới được phát triển hoàn thiện. Ngoài ra, lông chim còn có thể rụng và bay khắp nơi quanh năm. Khác với các cá thể đực chỉ có cái lưng màu nâu cùng chiếc bụng trắng thì chim cái có nhiều màu sắc hơn tuy lông của chúng không dài bằng bạn tình. Cả hai giống đều có chỏm lông trên đỉnh đầu và phần cổ mang sắc xanh đầu và cơ thể của công có chiều dài khoảng 1 mét.

Loài công này có nguồn gốc từ đất nước của những tôn giáo linh thiêng – Ấn Độ, Sri Lanka và tập trung ở Nam Á. Ở các quốc gia khác, chúng cũng được nuôi và giới thiệu trong những triển lãm, công viên, vườn thú, bảo tàng tự nhiên hoặc làm vật nuôi trong nhà. Công là một loài vật theo chủ nghĩa “đa thê“, tức là một con công đực có thể giao phối với nhiều con cái khác. Hơn nữa, công cái cũng không thích “đánh dấu chủ quyền” bạn tình của mình. Con đực xòe rộng cái đuôi của mình và mời con cái thức ăn như một cách để tán tỉnh bạn tình. Mùa giao phối của công khác nhau tùy theo nơi chúng sinh sống. Ở miền Nam Ấn Độ thì là từ tháng Tư đến tháng Năm, ở Sri Lanka là tháng Giêng đến tháng Ba, còn tới miền Bắc Ấn Độ thì lại vào tháng Sáu.

Thông thường, công cái là giống duy nhất thực hiện việc ấp trứng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp từng ghi nhận là giống đực ấp trứng. Sau khoảng 28 ngày sau, những con non nở ra và theo chân mẹ đi khắp nơi. Đôi khi, công mẹ còn để đám con của mình nằm trên lưng và cùng bay đến một cành cây vững chắc nào đó.

Công Ấn Độ
Công Ấn Độ

10. Chim đuôi seo

Tên khoa học là Pharomachrus mocinno, còn gọi là chim quetzal. Thời xưa ở Trung Mỹ, chỉ có thầy tu và những người thuộc tầng lớp trên mới được đeo lông của loại chim này. Bất kỳ thường dân nào bị phát hiện có cất giấu những cái lông này đều bị mang ra giết chết. Với nền văn hóa Maya xưa, lông chim đuôi seo rất quý, giá trị hơn cả vàng. Hễ ai giết một con chim đuôi seo sẽ bị tội tử hình.

Cả người Maya lẫn người Aztec đều thờ cúng chim thiêng quetzal. Đối với họ, loại chim này có mối quan hệ gần gũi với thần rắn Quetzalcoatl. Chim đuôi seo rất sợ sự giam cầm. Chúng thà tự kết liễu đời mình còn hơn bị nhốt trong lồng hay xiềng xích. Vì thế, chúng trở thành biểu tượng của Guatemala, một quốc gia thuộc Trung Mỹ và cũng là hiện thân của một vị thần hùng mạnh trong thần thoại Maya cổ. Đến thời thực dân, chim đuôi seo trở thành biểu tượng của sự tự do, nó trở thành quốc huy của nước Guatemala. Tên của loại chim này cũng được dùng để đặt cho đồng tiền (đồng tiền quetzal của Guatemala).

Sở dĩ loại chim này có vẻ linh thiêng như vậy là vì dáng hình hết sức đặt biệt của chúng. Bộ lông của chúng có màu sắc sặc sỡ, nổi bật lên là 2 màu: Xanh lá cây và đỏ. Chim trống rất đẹp: Mỏ ngắn, màu vàng, có những cái lông dài phủ trên đuôi, hợp lại thành hình chữ V. Những cái lông màu xanh đặc biệt đó có thể dài đến 105m, chúng đạt đến chiều dài tối đa khi chim đuôi seo được 3 năm tuổi, chim đuôi seo trưởng thành có thân mình dài khoảng 35cm. Trong khi đó, chim mái lại có mỏ đen, không có lông dài phủ trên đuôi, bộ lông cũng có màu tối hơn với hai màu xanh lá và nâu. Loại chim đặc biệt này phân bố suốt từ Nam Mexico đến Panama. Khách du lịch đến đây rất thích được ngắm nhìn vẻ đẹp lạ lùng của loại chim kỳ diệu này, hiện chúng được luật pháp bảo vệ ở Mexico, Guatemala, Costa Rica và Panama.

Chim đuôi seo
Chim đuôi seo

Trên đây là một số loài động vật có bộ lông tuyệt đẹp mà Toplist vừa giới thiệu tới các bạn, mong rằng các bạn có thể chiêm ngưỡng những nét đẹp có một không hai ở các loài vật này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *